Hiện nay, ai cũng biết Phương pháp Diện Chẩn – điều khiển liệu pháp
do GS-TSKH Bùi Quốc Châu tìm ra từ năm 1980 và đã phổ biến rộng rãi trên khắp
thế giới là một phương pháp điều trị trong lĩnh vực y học bổ sung với một yếu
tố hết sức nhân văn và độc đáo, đó là việc “ biến bệnh nhân thành thày thuốc”
giúp cho những ai học và áp dụng phương pháp này có thể tự chữa bệnh cho mình
và cho người khác. Chính vì điều đó, nên đã có hàng trăm ngàn người theo học và
qua đó cũng có biết bao nhiêu người Việt Nam và ngoại quốc đã có thể vận dụng
để chữa trị hay đứng ra giảng dạy phương pháp này.
Xuất phát từ nhu cầu
chữa bệnh cũng như học hỏi, có rất nhiều người tìm kiếm trên các trang web nói
về Diện Chẩn cũng như qua tài liệu sách vở, cũng có một số người nguyên là môn
sinh của thày Bùi Quốc Châu, sau thời gian học tập nghiên cứu và thực hành chữa
bệnh, đã biên soạn ra những tài liệu với nhiều mục đích khác nhau.
Nhưng dù với mục đích gì, thì một nguyên tắc quan trọng nhất mà ai là người cầm
viết đều phải biết, đó là sự tôn trọng tác quyền nhất là trong lĩnh vực nghiên
cứu sáng tạo. Kiến thức là của chung, nhưng sự khai phá trong một lĩnh vực mới
là công sức và sở hữu mỗi cá thể. Chúng ta có quyền sử dụng các kiến thức, và
vận dụng các sáng tạo để đem đến cho mọi người những điều hữu ích, nhưng chúng
ta phải biết tôn trọng những người đã tìm ra các kiến thức à sự sáng tạo đó
Khi
cầm cuốn sách: “ Nghiên cứu ứng dụng & phát triển Việt Y Pháp –
Diện chẩn điều khiển liệu pháp” của tác giả Nguyễn thành Linh trên
tay, chúng tôi rất vui khi có thêm một tác phẩm nói về Diện Chẩn. Nhưng tiếc
thay, ngay từ tựa sách đã cho thấy sự sai lạc trong kiến thức và nhận thức về
ngôn từ - Ai cũng biết, khi GS.TSKH Bùi Quốc Châu khai sáng ra phương
pháp Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp, thì thày đã đưa ra khái
niệm Việt Y Đạo – mà trong đó, ngoài Diện Chẩn – Điều khiển
liệu pháp, còn có những phương pháp khác như Âm Dương Khí Công - Ẩm thực Dưỡng
Sinh – Thể dục tự ý – Thai giáo Việt Nam…đều nằm trong đường hướng Việt Y Đạo.
Tất cả những điều đó mới tạo nên một hệ thống bảo vệ sức khỏe con người để có
thể sánh với hai lĩnh vực y học cơ bản nhất là Tây Y và Đông Y - đó là một tầm
nhìn hết sức giá trị vì điều đó không chỉ xác định đây là một hệ thống Y học
của người Việt Nam, mà đây còn là một con đường đi tới hạnh phúc, một hệ giá
trị về tư tưởng của văn hóa Việt với sự thẩm thấu nền triết lý Tam Giáo Đông
Phương. Nhưng ngay từ tựa sách, khi đưa ra khái niệm Việt Y Pháp –
một khái niệm không có căn bản từ văn phạm cho đến ngữ nghĩa, vì ta chỉ dùng
chữ pháp trong từ đôi là phương pháp hay liệu pháp, và nó mang ý nghĩa chỉ là
một trong nhiều cách thức hay kỹ thuật điều trị của một nền học thuật. Vì thế,
khi gắn chữ pháp vào hệ thống Việt Y (Y thuật của Việt Nam) là một sự gán ghép
khiêm cưỡng chỉ cho thấy một “lỗ hổng” khá lớn về kiến thức khi muốn
đưa ra một khái niệm mới nhằm tránh né từ Việt Y Đạo – một khái niệm
chính thống đã phổ biến hơn 30 năm nay. Điều này chỉ có thể hiểu là một cách
dùng “từ nhái” như những nhãn hàng nhái của Trung Quốc đang tràn lan trên thị
trường Việt Nam, chứ không thể xem là một phương pháp hay một học thuật mà tác
giả là người “bào chế” ra.
Đi
vào nội dung, khi đưa ra nhận định: “Việt Y Pháp Diện Chẩn – điều khiển liệu
pháp gọi tắt là Diện Chẩn liệu pháp là phương pháp khám và chữa bệnh căn cứ vào
những hiện tượng biểu hiện thuộc tính tổ chức và hoạt động của não và hệ thống
thần kinh trên mặt da, là loại hình y học bổ sung do Việt Nam phát minh ngày 26
tháng 3 năm 1980 ( Sdd trang 7). Chỉ với vài dòng ngắn ngủi, tác giả
đã có hai sự sai lầm nghiêm trọng :
1. Khi nói đến một phương pháp hay
một loại hình cụ thể nào đó thì điều đó phải do một cá nhân hay một nhóm người
dưới sự lãnh đạo của một nhà phát minh sáng chế ra, chứ không thể lẫn lộn với
một quốc gia được. Khi nhắc đến thuốc tiêm chủng phòng bệnh dại, người ta phải
nói đó là do nhà bác học Pasteur tìm ra chứ không thể nói là do nước Pháp phát
minh ra. Trên thế giới, mọi phát kiến từ đơn giản đến vĩ đại đều gắn liền với
tên tuổi của một người nào đó hay một nhóm nào đó. Ở đây, tác giả cố tình dùng
khái niệm phát minh về Diện Chẩn gắn với nước Việt Nam, để tránh né sự thật về
phát minh của thày Bùi Quốc Châu với phương pháp Diện Chẩn – điều khiển liệu
pháp từ những năm 1980. Chúng ta có thể nói Việt Y Đạo là một hệ thống y học
của Việt Nam , chứ không thế
nói là do Việt Nam
sáng chế ra vào một thời điểm cụ thể nào đó. Đây là hai ý nghĩa hoàn toàn khác
nhau mà tác giả cố tình “đánh lận con đen” !
2. Một sự sai lầm thứ hai, đó là
vào ngày 26 -3 năm 1980 thì chỉ có sự ra đời của một kỹ thuật với danh xưng ban
đầu là Diện Châm khi thày Bùi Quốc Châu khám phá ra một huyệt đạo trên mặt một
người nghiện ma túy tại trung tâm cai nghiện Bình Triệu, nơi thày Châu đang
công tác vào thời điểm đó. Thày đặt tên là huyệt số 1 – Cách đặt tên không
giống bất kỳ tên gọi về huyệt đạo nào của Đông Y , và từ đó đã đặt nền tảng cho
cả một hệ thống Việt Y Đạo chứ không chỉ riêng gì với Diện Chẩn – Điều khiển
liệu pháp. ( tham khảo Website: tuchuabenh.com)
Tác giả có quyền nghiên cứu về y
thuật, về huyệt đạo và cũng có quyền nghĩ ra một phương pháp chữa bệnh dựa trên
các huyệt đạo nơi vùng mặt, nhưng phải gọi các huyệt đạo đó bằng một tên riêng
khác với Đông Y hay với Việt Y Đạo và khác với từ Diện Chẩn – Điều khiển liệu
pháp, vì đó là danh xưng do thày Bùi Quốc Châu nghĩ ra dựa trên nền tảng của cả
một hệ thống lý luận chặt chẽ và đặc biệt là phù hợp với sự hiểu biết của tất
cả mọi người. Tác giả vì không thể nghĩ ra một phương pháp nào khác, một cái
tên hay ho nào khác, nên đành phải dùng trọn vẹn cả một cụm từ, trong đó chỉ
thay thế chữ Đạo bằng chữ Pháp để thành ra Việt Y Pháp Diện Chẩn – Điều
khiển liệu pháp và cho rằng, đó là nghiên cứu sáng tạo của nước Việt Nam,
mà tôi là người Việt Nam nên có quyền xem đó là một nghiên cứu của tôi – nó
khác với hệ thống lý luận Việt Y Đạo và phương pháp Diện Chẩn – Điều khiển liệu
pháp của GS-TSKH Bùi Quốc Châu, đã hình thành và phát triển từ ngày 26 – 3 –
1980 đến nay ! Còn nghiên cứu của tác giả thì lại dựa trên sự phát minh của
nước Việt Nam cũng vào ngày 26 – tháng 3 năm 1980 quý hiếm ấy, nhưng mãi đến
hơn 30 năm sau thì tác giả mới viết ra được một cuốn sách để minh chứng cho sự
tồn tại của Việt Y Pháp, trong khi với thời gian đó thì thày Bùi Quốc Châu và
các môn sinh chân chính của mình đã cho ra đời hàng chục tác phẩm khác nhau,
được biên soạn và dịch thuật sang 8 thứ tiếng và phát hành trên toàn cầu để
quảng bá một nền y thuật Việt Nam là Việt Y Đạo!
Để chứng minh là nghiên cứu của
mình khác với hệ thống lý thuyết của Diện chẩn – Điều khiển liệu pháp Bùi Quốc
Châu – tác giả đã đưa vào cả những học thuyết về nguyên tử - phân tử của
Lomonosov, cũng như các cơ sở lý luận của Darwin, của Mark- Engel … về vật lý,
sinh học và triết học cũng như cả hệ thống lý luận về huyệt đạo của Đông y mà
tác giả cho biết có 360 huyệt chính kinh và 17 huyệt ngoài kinh ( Sách Y Đông
Kinh Giám ) cũng như xác định Diện chẩn liệu pháp ( của tác giả - hay của nước
Việt Nam ? ) có 255 huyệt cùng với những huyệt chỉ xuất hiện khi có bệnh gọi là
Sinh huyệt. Điều này cũng có thể chấp nhận nếu tác giả đưa ra được bản đồ 255
huyệt đó trên vùng mặt với cách gọi khác với 255 huyệt đạo của Diện chẩn Điều
khiển liệu pháp Bùi Quốc Châu (DC- ĐKLP- BQC). Tại sao lại dùng chính sơ đồ
huyệt của thày Bùi Quốc Châu với cũng những tên gọi như thế để minh họa trong
sách của mình? Điều đáng trách lớn nhất, đó là khi đưa sơ đồ huyệt đạo vùng mặt
của DC- ĐKLP-BQC vào sử dụng, thì tác giả lại cố tình không ghi tên người xây
dựng ra sơ đồ huyệt đó, mà người nào học về Diện Chẩn, đều biết đó là của thày
Bùi Quốc Châu – Tác giả cũng là người đã từng là môn sinh hai khóa của thày
Châu, lẽ nào không biết điều đó ?
Ngoài hệ thống huyệt lấy từ DC- ĐKLP BQC, thì tác
giả còn lấy một vài đồ hình phản chiếu ngoại vi cơ thể và một vài dụng cụ chữa
bệnh đã có đăng ký bản quyền của thày Châu để minh họa cho các thủ pháp chữa
bệnh của mình. Chúng ta biết rằng, phác đồ trị bệnh và nhất là dụng cụ điều trị
thì có rất nhiều, nhưng mỗi phương pháp đều có những phác đồ riêng và dụng cụ
riêng. Tại sao tác giả không xây dựng cho phương pháp mình một hệ thống đồ hình
và những dụng cụ chuyên biệt, mà phải lấy những dụng cụ của Diện Chẩn đưa vào
sách của mình mà không có sự đồng ý của thày Bùi Quốc Châu, tác giả hợp pháp
của các dụng cụ này – Chúng ta nên biết, toàn bộ các dụng cụ của phương pháp
DC- ĐKLP BQC đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam Vietkings – xác
nhận tác giả là Bùi Quốc Châu ( tháng 1/2010), cũng như cục sở hữu trí tuệ đã
xác nhận bản quyền trên các dụng cụ này. Tác giả biết đăng ký bản quyền tác
phẩm Việt Y Pháp để tránh sự sao chép hay thưa kiện, nhưng lại sử dụng trong
sách này những hình ảnh, dụng cụ phác đồ lấy của người khác một cách bất hợp
pháp !
Ngoài ra, để tránh việc sử dụng
nhiều phác đồ điều trị của thày Bùi Quốc Châu và các cộng sự, tác giả lại dùng
các hình ảnh minh họa lấy từ một tác phẩm bằng tiếng Pháp của các tác giả Marie
France Muller – Nhuan Quang Le ( Le “Dien Cham” une etonnante methode
Vietnamienne de reflexology facial –xb năm 2000 và được dịch ra tiếng
Anh là Facial Reflexology – A self care manual xb năm
2006) Tác phẩm này đã được dịch thuật qua tiếng Việt với tựa đề
: Phương pháp bấm huyệt trên mặt – nxb Thanh Hóa ( mà có lẽ
chưa được sự cho phép của bà Muller ). Hẳn là tác giả lý luận rằng, mình lấy
các phác đồ trị bệnh theo Diện Chẩn từ sách tiếng Việt, mà sách tiếng Việt đã
không xin phép tác giả (Tiếng Pháp và tiếng Anh ) để biên dịch thì mình cũng có
quyền dùng “chùa” luôn ! Nói nôm na là lấy cắp đồ ăn cắp thì không cần báo cho
kẻ trộm làm gì !
Trên thực tế, việc sử dụng các
nghiên cứu của người khác, để đưa vào sách của mình là một điều hết sức bình
thường, người ta gọi đó là tham khảo. Nhưng với nguyên tắc là phải ghi rõ nguồn
gốc, xuất xứ của các nghiên cứu đó, thậm chí ngay cả việc trích dẫn một câu hay
một đoạn văn, nhất là những vấn đề liên quan đến khoa học, kỹ thuật thì cũng
phải ghi rõ để minh chứng một điều, đó không phải là ý tưởng của người viết, mà
chỉ là những điều của người khác được người viết dùng để minh họa hay chứng
minh cho ý tưởng của mình.
Tác giả tự nhận mình là cử nhân
Toán – Lý, hay nói một cách nôm na là sinh viên tốt nghiệp ĐH Sư Phạm Hà Nội mà
vẫn không biết được nguyên tắc hết sức sơ đẳng này, một nguyên tắc mà bất cứ
một sinh viên nào khi viết một bài luận văn đều phải biết, đó là ghi rõ tên tác
phẩm, tác giả, nhà xuất bản, năm xuất bản của bất kỳ một tài liệu nào được đưa
vào sử dụng trong luận văn của mình. Có thể là do tác giả chưa viết được một
luận văn nào nên không biết đến nguyên tắc này chăng? ( có lẽ thế thật vì trong
hình minh họa trang 65 ghi rõ tác giả mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất khoa
Toán – Lý ĐH Sư Phạm HN.
Chúng ta thử đọc một đoạn trong
sách qua phát biểu của lương y Nguyễn Đăng Xiêng như sau:
“ Với tôi, càng sử dụng hệ thống
huyệt của Diện Chẩn Liệu Pháp, trải nghiệm các phác đồ của thày Bùi Quốc Châu
và đồng nghiệp, tôi càng ý thức sâu sắc cơ thể chúng ta là một sản phẩm hoàn
thiện của tạo hóa…không nên tùy tiện mổ xẻ, cắt bỏ hay thay
thế…” (Trang 154 ) thì chúng ta sẽ thấy là lương Y Xiêng cũng công
nhận các phác đồ là của thày Bùi Quốc Châu và đồng nghiệp. Vậy mà khi trích dẫn
các phác đồ này vào trong sách của mình thì tác giả đã không ghi rõ trên từng
đồ hình mà chỉ nói một cách hết sức ngắn gọn trong phần mục lục cuối tập sách
một vài dòng chữ ngắn ngủi. ( phụ lục 2 : 25 đồ hình cơ bản của Bùi Quốc Châu)
Ngoài việc sử dụng các nghiên
cứu và phác đồ của thày Bùi Quốc Châu, mà tác giả tự xem là “tài sản chung”của
nước Việt Nam để tùy nghi sử dụng trong sách của mình, thì khi xem xét về mặt
cấu trúc cuốn sách, chúng ta lại càng thấy những nét “đặc sắc” của một chuyên
gia “Copy and Paste” này, đó là ngoài phần nói một cách hết sức mơ hồ về các
nguyên lý khoa học làm nền tảng cho Việt Y Pháp, cùng với khá nhiều hình ảnh tự
đề cao cá nhân (là một điều khá tế nhị nên tránh trong một tác phẩm về khoa
học) không dính dáng gì đến nội dung cuốn sách, thì tác giả đã dành
gần như một nửa số trang của một tác phẩm nghiên cứu hoàng tráng dầy những 272
trang cho phần phụ lục mà nói nôm na là các thông tin của người khác được
bê vào !
Các phụ lục được đưa vào từ
trang 160 đến trang 268, nghĩa là đến 102 trang ! Trong khi nếu nói về cấu trúc
một tập sách nghiên cứu thì phần phụ lục không thể chiếm quá 1/5 bề dầy của tác
phẩm. Nói cách khác, phụ lục chỉ là phần thêm vào để minh họa, làm rõ nghĩa một
số điểm trong tác phẩm của mình chứ không thể xem là một nội dung chủ yếu.
Nhưng chúng ta hãy thử xem nhà nghiên cứu Việt Y Pháp này đã đưa gì vào trong
các phụ lục:
Phụ lục 1A : phần Tên đồng nghiệp
viết tắt : Trong đó có ghi tên thày Bùi Quốc Châu như một người ngang hàng với
các nhà nghiên cứu và thực hành Diện Chẩn khác, trong đó có lương Y Bùi Minh
Tâm là con trai của thày Châu, cũng như các vị khác đều là môn sinh trực tiếp
hay gián tiếp học tập với thày Bùi Quốc Châu. Điều này tương tự như việc đánh
đồng người thày ngang hàng với các học trò của mình, mặc dù có thể sau khi học
xong, tốt nghiệp ra trường và hành nghề thì một sinh viên ngành y hay một
chuyên ngành nào đó cũng có thể xem người thày đã dạy mình trong trường đại học
là đồng nghiệp. Nhưng điều đó không có nghĩa là người sinh viên đó có quyền tự
xem mình là ngang hàng với người đã dạy mình, dù chỉ là một vài bộ môn, huống
chi đây lại là cả một hệ thống lý luận và thực hành về một nền y học bổ xung !
GS TSKH Bùi Quốc Châu có thể xem các ông như Tạ Minh, Hình Ích Viễn, Lý Phước
Lộc và ngay cả con trai mình là Lương Y Bùi Minh Tâm là đồng nghiệp trong một
chừng mực nào đó, nhưng các vị này không nên và không thể xem thày Bùi Quốc
Châu là đồng nghiệp của mình! Điều đó thì cả trong ý thức về đạo lý
thày trò cũng như về phương diện học thuật đều không thể chấp nhận. Phụ lục này
chỉ có 1 trang, đúng chuẩn của phụ lục !
Phụ lục 1B : Phụ lục này thì lại kéo
dài từ trang 163 – 248 và đều là nội dung trong cuốn sách của bà M.F. Muller Có
lẽ tác giả sợ các bạn đọc tìm không ra cuốn sách viết về Diện Chẩn được bán khá
nhiều trong các cửa hàng sách nên đã chịu khó copy and paste đến 85 trang từ
một cuốn sách đã xuất bản cho thật hoành tráng !
Phụ lục 2 : Đây là các đồ hình cơ
bản của phương pháp Diện Chẩn – ĐKLP của thày Bùi Quốc Châu mà nếu ai xem
nguyên bản trong sách Tuyển tập đồ hình Diện Chẩn –Điều khiển liệu pháp
& Xoa bóp Việt Nam Cũng như trên trang web :
tuchuabenh.com đều biết rõ là bên cạnh mỗi đồ hình đều có tên của tác
giả là Bùi Quốc Châu. Cũng có một đồ hình khác của của thày Châu và ông Giác
Tấn. Nhưng khi đưa 24 đồ hình này vào làm phụ lục cho sách của mình, thì tác
giả lại quên ghi tên người đã tạo ra nó ở bên cạnh !
Cuối cùng, một tập sách nghiên
cứu với nhiều nguồn thông tin khác nhau, trích dẫn từ những tài liệu, tác phẩm
khác nhau thì bắt buộc phải có phần thư mục, là nơi ghi rõ tên tác phẩm, tên
tác giả, tên nhà xuất bản và năm xuất bản mà tác giả đã trích dẫn trong sách
của mình. Đó không chỉ là một sự tôn trọng tác quyền, mà còn là một cơ sở minh
chứng nguồn gốc cho các thông tin, đặc biệt là về khoa học kỹ thuật và đó là
một trong những nguyên tắc biên soạn sách. Nhưng anh sinh viên Toán lý này đã
quên luôn, hay không biết đến nguyên tắc này nên đã không ghi rõ những gì đã bê
vào cuốn sách thập cẩm về Diện Chẩn của mình.
Tóm lại, ngoài những hạn chế
nhất định về trình độ và sự lủng củng trong việc bố cục cuốn sách, thì tập
sách Nghiên cứu ứng dụng và phát triển Việt Y Pháp – Diện chẩn điều
khiển liệu pháp của tác giả Nguyễn thành Linh là một đỉnh cao của việc
sao chép, ăn cắp bản quyền và coi thường những nguyên tắc đạo lý hết sức cơ bản
của người Việt Nam nói chung và của giới y học nói riêng. Tác giả đã hiên ngang
chà đạp lên tinh thần “uống nước nhớ nguồn” khi tùy tiện đổi tên Việt Y Đạo
thành Việt Y Pháp, như một thứ hàng nhái rẻ tiền – Chà đạp lên giá
trị “tôn sư – trọng đạo” khi lấy những sáng tạo của GS TSKH Bùi Quốc Châu đưa
vào sử dụng trong sách của mình với những ý đồ hết sức rõ ràng trong việc “nhập
nhằng” giữa sự sáng tạo của một người đã được xem là ân nhân của nhân loại (
lời BS Jean Pierre Willem khi đề tựa sách ABC du Dien Chan của GS TSKH Bùi Quốc
Châu trên báo Xưa và Nay số Xuân Canh Dần) với sự sáng tạo về một cái gọi là
Việt Y Pháp của “quốc gia Việt Nam” – một sự nhập nhằng hết sức ấu trĩ.
Phương pháp Diện Chẩn – Điều
khiển liệu pháp cùng hệ thống các phương pháp khác trong Việt Y Đạo ( Âm Dương
Khí Công, Ẩm Thực Dưỡng Sinh, Thể Dục Tự Ý, Thai Giáo Việt Nam…) không đơn
thuần chỉ là một cái “pháp” như anh sinh viên Toán Lý kia đưa ra, mà đó là một niềm
hãnh diện của cả một dân tộc, một hệ thống lý luận và thực hành tuy cao siêu
nhưng từ một em bé, một cụ già hay một người ít học cho đến những Y bác sĩ Đông
– Tây Y và các học giả đều có thể hiểu và áp dụng tùy theo năng lực và sự tin
tưởng của mình. Đó là điều mà không phải phương pháp nào cũng có thể làm được.
Thật đáng tiếc cho một người đã
từng là bộ đội cụ Hồ, đã từng là một sinh viên ngành sư phạm và cũng đã bước
qua cái tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh” mà chỉ vì chút ham muốn lưu danh với
thiên hạ bằng một tác phẩm ( mua giấy phép xuất bản của chi nhánh NXB Trẻ tại
Hà Nội) được in ấn khá hoành tráng. Nhưng qua tập sách: Nghiên cứu ứng
dụng & phát triển Việt Y Pháp – Diện chẩn điều khiển liệu pháp với
một nội dung chắp vá, cấu trúc thiếu khoa học và các thông tin lấy từ các nguồn
khác nhau một cách không minh bạch bằng một tinh thần thiếu tôn trọng những
nguyên tắc pháp lý và đạo lý, thì có lẽ tên tuổi tác giả Nguyễn Thành Linh cũng
sẽ được lưu, nhưng thay vì lưu danh thiên cổ thì cũng sẽ lưu cái gì …vạn niên
ấy !
Học viên khóa Diên Chẩn 104/2007
--------------------------DCMB mời đọc giả tham khảo thêm
Logo Việt Y Đạo trên trang Web của GS TSKH Bùi Quốc Châu
Logo trên trang Web Việt Y Pháp của ông Nguyễn Thành Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét